Căn bệnh ung thư giai đoạn 3 mà ông mang trước khi chết, phải chăng cũng chính là “lòng thương xót” mà Đức Kitô muốn gởi trao cho ông, để ông biết trân quý hồng ân sự sống, điều mà trước đây ông đã từng coi rẻ. Căn bệnh ung thư cũng là cơ hội để ông tìm về với lòng thương xót Chúa để được thứ tha, để được chữa lành. Vì cũng trong quá khứ, ông đã từng là người “nhiệt thành” công khai lên án Giáo Hội, cũng như đả kích và lăng mạ Hàng Giám mục Vênêzuela.
Lời thú tội và van xin sự tha thứ trên đây của cố Tổng thống Hugo Chavéz có thể nói là một chứng từ làm sáng lên sứ điệp của lòng thương xót của Chúa trong Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay. Đọc lại trình thuật Tin Mừng của Thánh Gioan, ta thấy lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh được thể hiện qua 3 nét chấm phá sau đây.
– Thứ nhất là thể hiện qua việc hiện ra nhiều lần với các môn đệ nhằm củng cố niềm tin và trao ban bình an cho các ông.
Thấu hiểu tâm trạng thất vọng não nề của các môn sinh sau biến cố đau thương chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, và cũng thấu hiểu nỗi lòng của họ, nỗi lòng hoang mang, rối bời như mớ canh hẹ sau cái tin “xác của Thầy bị tay trộm nào đó cuỗm mất”, Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ nhiều lần để trấn an, để khích lệ và để củng cố niềm tin, niềm hy vọng cho họ. Củng cố bằng việc trao ban bình an cho họ, thứ mà họ đang cần hơn bao giờ hết. Rồi Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn của Ngài, đồng thời ăn uống trước mặt họ, để chứng tỏ Ngài đang hiện diện bằng xương bằng thịt chứ không phải là bóng ma. Ngài còn mở trí mở lòng cho họ hiểu Kinh Thánh và hiểu toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Rõ ràng ở đây ta bắt gặp một Đức Kitô Phục Sinh rất ân cần, rất trìu mến đối với các môn sinh của mình, tựa như gà mẹ qui tụ ấp ủ đàn con. Được gặp lại Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài khích lệ động viên, con tim của các ngài đã “vui trở lại”, niềm tin của các ngài đã vững vàng hơn lên và nhất là các ngài đã cảm thấy được bình an thực sự, bình an của ơn cứu độ vĩnh hằng. Đây là những yếu tố chuẩn bị cho một cuộc lên đường trong nay mai đây thôi. Lên đường để cao rao, để loan truyền Tin Mừng Phục Sinh cho mọi nước mọi dân.
– Thứ hai là thể hiện qua việc nhẹ nhàng, tế nhị với Tôma.
Nhiều người khi đọc trình thuật Phục Sinh thường có thái độ trách móc Tôma: nào là cứng lòng, nào là chậm tin, nào là đa nghi, đa ngờ… Thực sự, đối với Đức Kitô Phục Sinh, Tôma là người đáng thương hơn là đáng trách, đáng xót hơn là đáng mắng. Quả vậy, Đức Giêsu biết rất rõ tâm trạng của Tôma, một Tông đồ vốn có rất nhiều tham vọng. Chính vì có nhiều tham vọng nên khi thấy Thầy mình chết một cách “vô duyên”, “lãng xẹt”, Tôma đã trở nên tuyệt vọng. Không còn mặt mũi nào để lên mặt với bà con lối xóm nữa vì đã lỡ “to tiếng”, lỡ “ngẩng đầu quá cao” đối với họ, nên ông chỉ còn việc đi lang thang trong vô định, lòng dạ rối tung. Tin đồn mất xác Thầy dường như cũng chẳng làm ông quan tâm. Vì đối với ông, Thầy chết là đặt dấu chấm hết – một dấu chấm hết to tướng. Chấm hết cho mọi ước mơ hoài bão. Bởi đó, chiều ngày thứ nhất trong tuần khi các môn đệ khác họp nhau để “tìm một lối thoát thân”, Tôma đã vắng mặt. Hay nói đúng hơn là Tôma không muốn có mặt, vì gặp mặt nhau chỉ làm cho con tim thêm tan nát. Cả khi các Tông đồ khác háo hức báo tin cho ông là họ đã nhìn thấy Chúa Phục Sinh, ông còn thách thức ra mặt: “Đừng mong tôi tin khi tôi chưa xỏ được ngón tay vào lỗ đinh của Thầy; đừng đợi tôi mừng khi tôi chưa thọc được bàn tay vào cạnh sườn Thầy”. Chúa Giêsu thấu hiểu tất cả nỗi lòng của ông. Ngài không trách móc ông, cũng không “mắng vốn” ông. Ngài âm thầm chờ đợi “tám ngày sau” và nhẹ nhàng đáp ứng đòi hỏi của ông muốn được kiểm chứng tận mắt tận tay. Đây cũng là một nét chấm phá nữa làm sáng lên lòng xót thương vô ngần của Đức Kitô Phục Sinh.
Đứng trước thái độ nhân hậu từ tâm của Đức Kitô Phục Sinh, Thánh Tôma đã cảm xúc đến tận cõi sâu thẳm của lòng mình. Cùng với phản ứng ấy là một hành vi đức tin của sự suy phục, suy phục Đức Giêsu là Thiên Chúa của mình: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Ga 20,28). Để rồi từ đây thánh nhân dành trọn quảng đời còn lại của mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và lòng thương xót vô biên của Người.
– Thứ ba là thể hiện qua việc ban bố mối phúc dành cho những ai “không thấy mà tin”.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin” là lời thể hiện lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh. Bởi chưng con số những người được tận mắt thấy Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra thực sự là rất ít. Chỉ có nhóm Mười Một, nhóm Bảy Mươi Hai, nhóm các bà gồm Maria Macđala, Salômê,… và một số người khác. Còn con số các tín hữu không được thấy Chúa Phục Sinh là bao la không đếm xuể, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Tuy nhiên, chẳng phải họ là người không có phúc đâu. Trái lại họ còn có phúc hơn cả các Tông Đồ nữa là khác, ít ra là ở khía cạnh này. Chẳng phải Chúa Giêsu đã khẳng định với Tôma và qua Tôma với tất cả mọi người mọi thời: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” là gì! Tôma vì được thấy Chúa Phục Sinh hiện ra tỏ tường với mình nên ông mới tin. Còn chúng ta là những người chưa thấy Chúa Giêsu Phục Sinh hiện hình, dù chỉ là một lần; nhưng ta vẫn vững tin vào Ngài. Tin Ngài đã Phục Sinh và đang sống giữa chúng ta. Và vì tin như thế nên chúng ta là những người có phúc có phận hơn cả Tôma. Tạ ơn lòng thương xót Chúa vì mối phúc lớn lao này mà Ngài đã ân ban cho chúng ta là con cháu, là hậu duệ của của các Tông đồ.
Hôm nay, trên đường lữ thứ dương trần, người Kitô hữu chúng ta có lẽ đang cần lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh hơn bao giờ hết, vì cuộc sống hôm nay đầy dẫy những bệnh tật, khổ đau, tai ương hoạn nạn, chiến tranh khủng bố, kinh tế đình đốn, nợ nần túng thiếu, con cái khó răn khó dạy,… Đức Kitô Phục Sinh vẫn đang sống và đang hoạt động trong thế giới này. Ngài vẫn tiếp tục lặp lại sứ điệp: “Bình an cho anh em”. Bình an mà Ngài muốn ban tặng đó là bình an của Nước Trời, bình an ơn cứu độ. Ngài vẫn tiếp tục cất cao lời dễ thương: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh, phúc cho chị, phúc cho em… đã không thấy mà tin.
Hãy đến với Ngài để được Ngài thi thố lòng nhân hậu xót thương; hãy đến với Ngài để được Ngài ủi an nâng đỡ; hãy đến với Ngài để được Ngài tặng ban ơn bình an cứu rỗi tràn trào.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long